Sau khi học xong năm học thứ 3 tại trường THCS Bưởi (Bưởi Trung Học Cơ Sở), Tô Ngọc Vân nghỉ học và bắt đầu học vẽ để chuẩn bị thi vào trường mỹ thuật. Sau vài tháng đào tạo tại lớp dự bị, ông thi đậu vào trường École Supérieure des Beaux-Arts de l’Indochine, vào khóa văn bằng thứ hai từ năm 1926 đến năm 1931. Ngọc Vân là người được điểm cao nhất trong lớp cho kỳ thi cuối kỳ.
Sự Nghiệp Của Hoạ Sĩ Tô Ngọc Vân
Để bắt đầu, Tô Ngọc Vân đã gặp khó khăn trong việc tồn tại với tư cách là một họa sĩ và phải đi học vẽ cá nhân cũng như làm việc cho các tạp chí và báo như Nhân Loại, Phong Hóa, Ngày Nay và Thanh Nghị. Ông viết dưới bút hiệu Ái Mỹ. Các bút danh khác mà ông sử dụng là Tô Văn Xuân và Tô Tử.
Năm 1931, Tô Ngọc Vân đoạt huy chương bạc tại cuộc triển lãm thuộc địa ở Paris cho bức tranh sơn dầu Lá thư (A letter). Năm 1932, ông nhận được giải thưởng danh dự tại cuộc triển lãm của các họa sĩ Pháp. Khi kỹ năng của ông cuối cùng đã được công nhận vào đầu những năm 30, ông đã có thể kiếm sống bền vững bằng nghề họa sĩ.
Vào ngày 1 tháng 1 năm 1932, họa sĩ Tô Ngọc Vân đã kết hôn với Nguyễn Thị Hoàn – người vợ đầu tiên của ông – và ông có năm người con. Năm 1933, ông trở thành thành viên của hiệp hội nghệ sĩ Pháp. Cùng năm, ông được vua Bảo Đại mời vào cung khai sơn ở Huế. Năm 1935, ông đã giành được giải thưởng tại Société Annamite D’Encouragement à l’Art et à l’Industrie (Hiệp hội khuyến khích nghệ thuật và công nghiệp An Nam (SADEAI)). Trong những năm đó, trang bị giá vẽ gấp và ống sơn, ông đã đi khắp các vùng quê gần Hà Nội để cố gắng tái hiện vẻ đẹp và sự đa dạng của nó.
Họa sĩ Tô Ngọc Vân
Từ năm 1935 đến năm 1938, họa sĩ Tô Ngọc Vân dạy tại trường Sisowath ở Campuchia và vẽ ở Phnom Penh. Từ năm 1938 đến năm 1939, ông giảng dạy tại Trường Trung học cơ sở Bưởi – ngôi trường thời thơ ấu của ông. Từ năm 1939, ông dạy vẽ tại École Supérieure des Beaux-Arts de l’Indochine, sau đó trở thành giáo viên chính thức và giáo sư tại trường cao đẳng nghệ thuật.
Năm 1943, họa sĩ Tô Ngọc Vân tham gia nhóm Foyer de l’Art Annamite ( Home of Annamite ART ) (FARTA)) và cũng viết về nghệ thuật cho báo Hà Nội. Năm 1945, sau cách mạng, ông đã làm hai tấm áp phích lớn. Năm 1946, ông vẽ tranh chân dung Hồ Chí Minh và được bổ nhiệm làm Giám đốc Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam mới. Năm 1944, khi trường cao đẳng chuyển đến Sơn Tây sau trận chiến đấu ác liệt, ông đã tổ chức một cuộc triển lãm các tác phẩm của sinh viên cùng với Joseph Inguimberty tại Nhà Thông tin trên phố Tràng Tiền. Một năm sau, ông rời Hà Nội đến Bát Tràng.
Năm 1946, họa sĩ Tô Ngọc Vân tham gia Đội Tuyên truyền Việt Bắc, làm áp phích, khẩu hiệu trên tường. Sau đó anh ấy tham gia vào nhóm sân khấu “August”, trang điểm và đóng các vai phụ trên sân khấu. Năm 1947, ông trở thành Tổ trưởng Tổ văn nghệ vì lợi ích dân tộc ở Quân khu 10.
Năm 1948, họa sĩ Tô Ngọc Vân làm trưởng đoàn văn công kháng chiến ở Vĩnh Chánh, tỉnh An Giang. Sau đó ông trở thành giám đốc xưởng sơn mài và thành lập tờ báo văn học nghệ thuật, viết nhiều bài báo. Cùng năm đó, ông tham gia Đại hội Văn học Nghệ thuật Quốc gia, đã tranh luận sôi nổi với Tổng Bí thư Trường Chinh về chủ đề tranh tuyên truyền có được coi là tác phẩm nghệ thuật độc bản hay không. Những cuộc tranh luận này đã làm nổi bật sự chấp nhận một cách thờ ơ của ông đối với các nguyên tắc của lý tưởng cách mạng và chủ nghĩa hiện thực xã hội trong nghệ thuật.
Năm 1950, ông được bổ nhiệm làm Giám đốc Trường Cao đẳng Mỹ thuật Trung ương tại tỉnh Phú Thọ. Một năm sau, ông được bổ nhiệm làm Giám đốc Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam tại Hà Nội.
Họa sĩ Tô Ngọc Vân tham gia chiến dịch Biên giới và giải phóng Lào Cai năm 1950. Năm 1952, ông tham gia chiến dịch tăng cường sản xuất và kinh tế bằng cách vẽ thêm tranh chân dung Hồ Chí Minh và sử dụng một đề tài mới – họa sĩ trường phái ấn tượng nổi tiếng người Pháp, Henri -Jean Guillaume Martin.
Năm 1953, họa sĩ Tô Ngọc Vân về sống tại làng Ninh Dân, tỉnh Phú Thọ. Ông sống với dân làng và vẽ những bức tranh nghệ thuật về cuộc đấu tranh chống lại địa chủ của họ. Năm 1954, ông thực hiện một loạt ký họa về đời sống nông dân.
Tháng 4 năm 1954, Tô Ngọc Vân được lệnh đi Điện Biên Phủ để vẽ ký họa về các hoạt động quân sự ở mặt trận, mô tả cuộc sống của binh lính và nhân dân Tây Bắc và Điện Biên Phủ. Ngày 17 tháng 6 năm 1954 ông hy sinh tại cây số 14 Bà Khẽ, vượt đèo Lũng Lô, khi đang thực hiện nhiệm vụ ký họa trực tiếp. Cái chết của anh ấy rất gần trận chiến, một đánh dấu một bước ngoặt của cuộc chiến, đã khiến ông trở thành một anh hùng dân tộc.
Tháng 11 năm đó, những bức tranh của ông thực hiện vào thời điểm đó đã được giải thưởng tại Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc.
Năm 1985, một đường phố ở Thành phố Hồ Chí Minh được đặt theo tên ông và đến năm 1995, một đường phố ở Hà Nội được đặt theo tên ông.
Triển lãm
1931 – Exposition Coloniale, Paris, Pháp
1932 – Triển lãm của Hiệp hội Họa sĩ Pháp, Paris, Pháp
1954 – trao giải tại Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc
1996 – Paris – Hanoi – Saigon : L’aventure de l’art moderne au Viêt Nam , Pavillon des Arts, Paris, France
2006 – Il drago e la Farfalla , Complesso del Vittoriano, Rome, Ý
2013 – Du Fleuve Rouge au Mékong , Bảo tàng Cernuschi, Paris, Pháp
Vai trò chính thức
1935 – 1938 – Học tại Trường Sisowath ở Campuchia
1939 – Bắt đầu giảng dạy tại École Supérieure des Beaux-Arts de l’Indochine
1946 – Được bổ nhiệm làm Giám đốc Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam mới
1947 – Trưởng đoàn văn công vì lợi ích dân tộc khu 10
1950 – Giám đốc Trường Cao đẳng Mỹ thuật Trung ương tại Nghĩa Quân, Yên Phú
1951 – Được bổ nhiệm làm Giám đốc Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam
Giải thưởng
1931 – Giành huy chương bạc tại Exposition Coloniale cho bức tranh sơn dầu Chữ A của ông, Paris, Pháp
1932 – Nhận giải thưởng danh dự tại triển lãm của các họa sĩ Pháp
1985 – Một đường phố ở Thành phố Hồ Chí Minh được đặt theo tên ông
1995 – Một con phố ở Hà Nội được đặt theo tên ông
Tác Phẩm Tranh Của Hoạ Sĩ Tô Ngọc Vân
Những người phụ nữ luôn là nguồn cảm hứng sáng tạo bất tận cho Tô Ngọc Vân. Đối với ông, những bức tranh mà ông vẽ không chỉ tái hiện những vẻ đẹp của hình thể mà còn tượng trưng cho những vẻ đẹp về quan niệm và cuộc sống. Tất cả đều được biến hóa linh hoạt diệu kỳ trong từng nét bút. Trong suốt quãng thời gian hoạt động sáng tạo nghệ thuật, ông đã để lại được rất nhiều tác phẩm ấn tượng. Và các tác phẩm nghệ thuật của ông được chia thành hai giai đoạn chính là từ trước những năm 1945 và sau năm 1945. Tất cả các tác phẩm mà ông để lại đều có những giá trị nhất định và tạo nên tiếng vang lớn cho nền hội họa Việt Nam.
Thiếu Nữ Bên Hoa Huệ – Tô Ngọc Vân
Từ trước những năm 1945, các tác phẩm tiêu biểu của họa sĩ Tô Ngọc Vân như: Thiếu nữ bên hoa sen (1944), Thiếu nữ bên hoa huệ (1943), Hai thiếu nữ và em bé (1944), Thiếu phụ ngồi bên tranh tam đa (1942), Buổi trưa (1936), Bên hoa (1942). Tất cả các tác phẩm của ông trong thời gian này chủ yếu tập trung vào hình ảnh những người phụ nữ và đều là tranh sơn dầu.
Hai Thiếu Nữ Và Em Bé
Vào sau năm 1945, các tác phẩm tiêu biểu của họa sĩ Tô Ngọc Vân như: Hồ Chủ Tịch làm việc tại Bắc Bộ phủ (1946), Nghỉ đêm bên đồi (1948), Con trâu quả thực (1954), Hai chiến sĩ (1949), Nghỉ chân bên đồi (1948), … Vào những năm này, tác phẩm của ông lại tập trung nhiều hơn để ký họa các hình ảnh kháng chiến thay vì những người phụ nữ như những năm trước kia. Tại thời điểm này, các tác phẩm của ông không chỉ còn là những bức tranh sơn dầu mà còn nhiều loại khác như tranh sơn mài, ký họa màu nước hay màu nước.
Tất cả các tác phẩm mà họa sĩ Tô Ngọc Vân để lại đều có những giá trị nhất định và tạo nên tiếng vang lớn cho nền hội họa Việt Nam.
Hai Chiến Sĩ
Tác phẩm “Bủ Đường biết đọc” họa sĩ Tô Ngọc Vân vẽ năm 1954, chất liệu màu nước trên giấy
Ông Lương Xuân Đoàn – chủ tịch Hội Mỹ thuật Việt Nam – xúc động gọi đây là “những tác phẩm đầu tiên của nền mỹ thuật cách mạng Việt Nam, những tác phẩm đẹp nhất”.
Khi đất nước gặp họa xâm lăng một lần nữa bởi giặc Pháp, các nghệ sĩ đến với cách mạng, sẵn sàng phục vụ cách mạng như một lựa chọn đương nhiên.
Họ bỏ lại đô thành phồn hoa, đi theo cách mạng lên chiến khu Việt Bắc, theo chân bộ đội, du kích ra mặt trận, theo chân nông dân ra đồng…
Các họa sĩ đồng hành để vẽ lại những vẻ đẹp mới của đất nước, những người đang chiến đấu giành độc lập, hòa bình cho Tổ quốc.
Để rồi những ký họa từ chiến khu ra đời như “những hóa thạch trên trang giấy nhỏ” những tình cảm của người nghệ sĩ dành cho vẻ đẹp mới của người Việt là những chiến sĩ, dân công, thanh niên xung phong, đặc biệt là hình tượng Bác Hồ.
Họa sĩ Tô Ngọc Vân cũng nằm trong số những nghệ sĩ chiến sĩ đầu tiên, đẹp đẽ ấy.
Tác phẩm “Hoan hô”, mực trên giấy, Tô Ngọc Vân vẽ năm 1954.
Tô Ngọc Vân – liệt sĩ đầu tiên của giới mỹ thuật
Họa sĩ Lương Xuân Đoàn cho biết ngay từ thời điểm toàn quốc kháng chiến năm 1946, ở Hà Nội, Tô Ngọc Vân đã vẽ tác phẩm Hà Nội vùng đứng lên. Ông vẽ thiếu nữ với tà áo dài tung bay, nói lên quyết tâm chiến đấu giành độc lập của người Hà Nội.
Ngay từ những ngày tiêu thổ kháng chiến đi lên chiến khu Việt Bắc ấy, danh họa đã tạo ra những nét đầu tiên của tranh ký họa Việt Nam.
Theo ông Đoàn, ký họa chiến trường chính là từ danh họa Tô Ngọc Vân. Ông có cách vẽ vừa nhanh vừa thận trọng, mang lại những tác phẩm giá trị, với ngôn ngữ thể loại như một bức tranh chứ không còn thuần túy là ghi chép.
Dù ông vẽ chì, bút sắt, than, hay màu nước thì cũng nguyên vẹn rung cảm của người nghệ sĩ trước vẻ đẹp mới của người Việt trong cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ của chúng ta.
Tác phẩm “May áo”, Tô Ngọc Vân vẽ mực trên giấy năm 1954
Sự hy sinh của Tô Ngọc Vân ngay trước hòa bình tại chiến khu Việt Bắc là một mất mát quá lớn của nền mỹ thuật nước nhà. Nhưng chỉ bằng những gì ông để lại cũng đã đủ đưa ông thành danh họa của Việt Nam.
“Những giá trị còn lại của danh họa Tô Ngọc Vân cho đến hôm nay cho thấy một cuộc đời đẹp đẽ, trọn vẹn cho đến phút cuối cùng khi ông ngã xuống ở chiến trường gần Điện Biên Phủ“, ông Đoàn nói về người liệt sĩ đầu tiên của giới mỹ thuật Việt Nam.
Tác phẩm màu nước “Đốt đuốc đi học”, Tô Ngọc Vân vẽ năm 1954.
Tác phẩm “Bộ đội nghỉ trong hang”
Tác phẩm “Chuẩn bị đi chợ”, Tô Ngọc Vân vẽ năm 1954
Ngay từ những năm học trong trường Mỹ thuật Đông Dương, ông đã sớm nghiên cứu kỹ lưỡng kỹ thuật sử dụng chất liệu sơn dầu ở Việt Nam và là người có công đầu tiên trong việc sử dụng chất liệu này ở Việt Nam. Tô Ngọc Vân được đánh giá là một tài năng xuất sắc, một tâm hồn nhạy cảm, một trái tim nóng bỏng nhiệt huyết và tình yêu quê hương, đất nước. Ông đã viết những dòng tự sự “…ngay từ lúc đi học đã mơ xây dựng một nền hội họa Việt Nam có tính chất dân tộc, phản ứng lại sự lan tràn của hội họa Pháp sang ta và để giành một địa vị mỹ thuật trọng yếu cho dân tộc trên thế giới…”. Ông từng được xếp ở vị trí thứ ba trong câu truyền tụng về “tứ bất tử” của nền hội họa Việt Nam thế kỷ XX: “Nhất Trí” (Nguyễn Gia Trí), “Nhì Lân” (Nguyễn Tường Lân), “Tam Vân” (Tô Ngọc Vân), “Tứ Cẩn” (Trần Văn Cẩn).
Thông qua mỹ thuật, ông đã cố gắng diễn tả được vẻ đẹp duyên dáng của người Việt Nam đương thời mà tiêu biểu là chân dung thiếu nữ. Kiệt tác “Thiếu nữ bên hoa huệ” được xem là tác phẩm nổi tiếng nhất và gây được nhiều tiếng vang nhất của ông, cả trong nước lẫn quốc tế. “Thiếu nữ bên hoa huệ” mô tả cảnh một thiếu nữ mặc áo dài trắng đang nghiêng đầu một cách đầy duyên dáng, khơi gợi về phía lọ hoa huệ trắng. Hình dáng cô gái kết hợp với những chi tiết và màu sắc xung quanh tạo thành một hình khối giản dị, toát lên một nét buồn dịu nhẹ.
Các tác phẩm của danh họa Tô Ngọc Vân luôn luôn mang đến cho người xem rất nhiều cảm xúc dâng trào. Ở Tô Ngọc Vân, những tri thức hội họa phương Tây đã kết hợp thực sự nhuần nhuyễn với cốt cách Á Đông và Việt Nam. Ông là một trong những họa sĩ người Việt hiếm hoi từng vẽ tem ngay trong thời Pháp thuộc. Không chỉ có vẽ để thể hiện và khẳng định tinh thần dân tộc trong sáng tạo nghệ thuật, Tô Ngọc Vân còn tích cực viết báo bày tỏ quan điểm của mình. Ông là một trong số hiếm hoi nhà phê bình mỹ thuật thời đó và đồng thời là một họa sỹ tài danh nên các bài viết của ông gây sự chú ý lớn đối với giới trí thức và những người có thiện cảm với hội họa hiện đại Việt Nam thời kỳ đầu. Tuy bận bịu đến vậy, ông vẫn không quên tìm hiểu sâu sắc hơn nữa đặc tính của sơn mài Việt Nam để từng bước khẳng định sự phù hợp của chất liệu này với hội họa hiện đại, tạo nên vẻ đẹp độc đáo riêng biệt của hội họa Việt Nam.
Để ghi nhớ công lao của ông, một khóa học của trường Mỹ thuật Việt Nam từ chiến khu trở về thủ đô đã lấy tên ông: Khóa học Tô Ngọc Vân 1955-1957. Toàn bộ tác phẩm của ông được Nhà nước lưu giữ, trưng bày tại Viện Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Ông là một trong tám họa sỹ hàng đầu của đất nước được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I (1996), giải thưởng cao quý của Nhà nước ta, ghi dấu tài năng và công lao đóng góp to lớn cho sự phát triển của dân tộc dành cho các nghệ sĩ và nhà hoạt động văn hóa.
PV (Tổng hợp)
Nguồn Arttimes